Tất tần tật về Thọ Mai gia lễ truyền thống của người Việt (Phần 1)

Tất tần tật về Thọ Mai gia lễ truyền thống của người Việt (Phần 1)

Thọ Mai gia lễ” là một trong những nghi lễ truyền thống của Việt Nam, được lấy cảm hứng từ “Chu Công gia lễ” của Trung Quốc cổ đại, nhưng không đơn thuần theo mô hình của Trung Quốc. Mặc dù một số phần của nghi lễ này đã trở nên lỗi thời từ thời triều Lê đến nay, nhưng những lễ nghi này đã trở thành phần không thể thiếu, sâu đậm trong nền văn hóa của người Việt. Cho đến ngày nay, dù ở miền Nam hay miền Bắc, “Thọ Mai gia lễ” vẫn được duy trì và phổ biến, đặc biệt là trong các nghi lễ tang. Phần 1 của loạt bài về “Thọ Mai gia lễ” từ Thiên Bình An sẽ giới thiệu chi tiết về các nghi thức truyền thống của nó trong văn hóa dân gian Việt Nam.

Thọ Mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc?

Thọ Mai gia lễ là gì?Thọ Mai gia lễ” là một trong những nghi lễ truyền thống của Việt Nam, được lấy cảm hứng từ “Chu Công gia lễ” của Trung Quốc cổ đại, tuy nhiên không bị giới hạn bởi mô hình của Trung Quốc. Mặc dù nghi lễ này đã có những phần lỗi thời từ thời triều Lê đến nay, nhưng vì đã trở thành phần không thể thiếu, sâu đậm trong nền văn hóa dân gian, nên cho đến ngày nay, cả ở miền Nam và miền Bắc, “Thọ Mai gia lễ” vẫn được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong các lễ tang.

Thọ Mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc?
Thọ Mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc?

Tác giả của “Thọ Mai gia lễ” Hồ Sỹ Tân, hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đỗ tiến sỹ vào năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái) và đã giữ chức quan đến Hàn lâm Thị chế.

Ba cha tám mẹ là những ai?

Theo Thọ Mai gia lễ, ba cha được định nghĩa như sau:

  • Thân phụ: Đó là bố (cha ruột) sinh ra mình.
  • Kế phụ: Sau khi bố (cha ruột) qua đời, nếu mẹ lấy chồng khác, thì chồng mới của mẹ được gọi là kế phụ hay bố dượng.
  • Dưỡng phụ: Là bố (cha ruột) nuôi dưỡng mình.

Tám mẹ theo định nghĩa Thọ Mai gia lễ gồm:

  • Đích mẫu: Vợ đầu của bố (mẹ già).
  • Kế mẫu: Nếu mẹ mất khi mình còn nhỏ, và bố lấy vợ khác để nuôi dưỡng mình.
  • Từ mẫu: Nếu mẹ mất khi mình còn nhỏ, và bố sai người vợ lẽ để nuôi dưỡng mình.
  • Dưỡng mẫu: Mẹ nuôi mình, trong khi cha mẹ nghèo không thể tự nuôi mình.
  • Xuất mẫu: Là mẹ sinh ra mình, nhưng bị cha ruồng rẫy và đuổi đi.
  • Giá mẫu: Là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất, mẹ lại lấy chồng khác.
  • Thứ mẫu: Là mẹ sinh ra mình, nhưng là vợ lẽ của cha.
  • Nhũ mẫu: Là mẹ vú, nuôi mình bằng sữa từ khi còn nhỏ.

Ngoài ra, theo Thọ Mai gia lễ còn có ba nhạc phụ (ba cha vợ) và tám nhạc mẫu (tám mẹ vợ), tức là:

  • Ba nhạc phụ: Ba cha của vợ (bố vợ, kế phụ vợ, dưỡng phụ vợ).
  • Tám nhạc mẫu: Tám mẹ của vợ (đích mẫu vợ, kế mẫu vợ, từ mẫu vợ, dưỡng mẫu vợ, xuất mẫu vợ, giá mẫu vợ, thứ mẫu vợ, nhũ mẫu vợ).

Với những định nghĩa này, tổng cộng sẽ có sáu cha và mười sáu mẹ theo quy định của Thọ Mai gia lễ.

Chúc thư là gì?

Chúc thư là gì?
Chúc thư là gì?

“Chúc” là lời dặn dò, phó thác. “Chúc thư” hay “Di chúc” là lời dặn dò của người chủ gia đình hoặc người lãnh đạo đất nước trước khi qua đời. Chúc thư hay di chúc được viết thành văn bản có giá trị hành chính và pháp lý. Trường hợp người viết không biết chữ, hoặc yếu thế không còn khả năng viết nữa, thường nhờ người khác viết và đọc lại cho nghe, sau đó ký tên hoặc điểm chỉ vào dưới văn bản.

Di chúc của nhà vua thường được gọi là di chiếu. Nội dung chính của chúc thư thường là về việc chia gia tài. Bao gồm số lượng ruộng đất, nhà cửa, phân phối cho các con trai, con gái, xác định ai được thừa hưởng từng phần, bao nhiêu mẫu (mặt vuông) hay sào (mặt phân) đất, ở đâu. Nếu còn lại, sẽ dành cho mẹ để dưỡng lão, và phân công ai sẽ chăm sóc. Ngoài ra, di chúc còn quy định việc trả nợ làng, nợ họ, rồi giao cho con nào để đòi hoặc trả nợ.

Bên cạnh đó, di chiếu của nhà vua có thể quyết định ai sẽ là đại thần phò thái tử lên ngôi. Nếu vị thái tử chưa được xác định, thì di chiếu sẽ chỉ định cho hoàng tử nào sẽ nối ngôi.

Cư tang là gì?

Trước đây, bất kể là quan chức nào, theo phép lệ của nước, khi cha mẹ qua đời, ai cũng phải về ở cư tang ba năm, trừ khi đang bận công việc quân sự ở biên ải hoặc đi sứ nước ngoài. Quy định này không áp dụng đối với binh lính và nha lại. Trong thời gian cư tang, lệnh vua không được đến thăm.

Ba năm cư tang là thời gian chịu đựng sự khổ đau và nhẫn nhục, không tham gia vào các cuộc vui, không dự đến các lễ cưới, lễ mừng, không uống rượu (ngoại trừ chén rượu trong các nghi lễ cúng cha mẹ), không thưởng thức nhạc vui, không ngủ cùng vợ hoặc nàng hầu, trừ khi chưa có con trai để tiếp nối dòng họ. Bất kỳ ai sinh con trong thời gian cư tang cũng bị coi là bất hiếu. Người ở còn không được mặc gấm vóc, nhung lụa, không đội mũ, không đi hia, phải đi bộ trên đường, hoặc cao nhất là đi dép mộc hoặc giầy cỏ.

Dù là đến vị trí cao nhất như tể tướng trong triều đình, khi có khách đến viếng cha mẹ, bất kể địa vị cao hay thấp, cũng phải cung kính chào đón và lạy tạ. Khi ra ngoài không tham gia vào mọi cuộc tranh luận. Trong nhà, ngay cả với những kẻ ăn người ở cũng không nên lớn tiếng.

Ba năm dài đầy sầu muộn, là thời gian để tự khắc nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với những người dưới quyền, và lễ phép với khách đến thăm, để thể hiện lòng thành kính với cha mẹ.

Ngày nay không còn tồn tại phong tục cư tang như vậy, nhưng việc biết đến lệ cư tang của ông cha ta xưa có thể giúp chúng ta học được cách ứng xử và tôn trọng đối với gia đình và người thân trong những thời điểm khó khăn và buồn bã.

Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?

Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?

Truyền thống quấn mũ rơm to quanh đầu và thắt lưng bằng dây gai, dây chuối đã trở nên lỗi thời và không còn được áp dụng nhiều nơi ngày nay. Tuy nhiên, phong tục chống gậy, đặc biệt là dành cho con trai tang cha (dùng gậy tre tròn) và con gái tang mẹ (dùng gậy gỗ đẽo vuông), vẫn còn tồn tại tại nhiều địa phương.

Nguyên nhân ban đầu của phong tục này xuất phát từ thời xưa, khi các con đường còn hẹp và có khi phải leo núi cao. Người chết thường được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, sâu trong rừng núi hoặc trên những triền núi đá có nhiều hang động. Có những trường hợp, con cái vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết đến mức không còn chú ý đến sự an toàn của bản thân, đập đầu vào tường đá khi leo núi, dẫn đến ngã xuống vực. Để tránh những tình huống thảm hại như vậy, người ta đã đặt ra quy định phải quấn quanh đầu bằng các vật liệu mềm để giảm thiểu tổn thương trong trường hợp va chạm. Đồng thời, phải sử dụng gậy để đi lại an toàn hơn. Rơm, lá chuối, dây gai và dây chuối là những vật liệu dễ tìm kiếm, phong phú và có sẵn ở mọi nơi, do đó được lựa chọn phổ biến cho mục đích này.

Phong tục này có nguồn gốc từ kinh nghiệm thực tế của một số người, từ đó dần trở thành phong tục lan rộng. Trong thời gian bình thường, khi làm việc trên cánh đồng, trong rừng hoặc đi bộ, mọi người thường mặc quần áo sát nách. Tuy nhiên, khi tham gia các nghi lễ tang, họ lại mặc áo dài rộng để dễ dàng, dễ chèo chống gai, góc và cần có dây đai. Phong tục này cũng xuất phát từ nhu cầu tránh nạn trùng tang.

Năm hạng tang phục (ngũ phục) là gì?

Năm hạng tang phục (ngũ phục) là gì?
Năm hạng tang phục (ngũ phục) là gì?

Theo Thọ Mai gia lễ, có năm hạng tang phục phân biệt theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình thân sơ. Các hạng này bao gồm:

Đại tang: Trảm thôi và tề thôi

  • Quần áo sổ gấu, gọi là trảm thôi: Con đeo khi tang cha hoặc tang mẹ.
  • Quần áo không sổ gấu, gọi là tề thôi: Con đeo khi tang mẹ, vợ đeo khi tang chồng khi cha của con chưa mất.
  • Thời gian tang: Ba năm ban đầu, sau đó giảm bớt còn hai năm ba tháng (sau khi qua lễ giỗ, cộng thêm ba tháng nữa là hai năm bảy tháng).
  • Áo xô và khăn xô thắt lưng có hai dải sau lưng (gọi là khăn ngang). Nếu cả cha và mẹ đã mất thì hai dải bằng nhau, nếu chỉ còn mẹ hoặc chỉ còn cha thì hai dải sẽ khác chiều dài.
  • Con trai khi tang cha mang gậy tre, tang mẹ mang gậy vông hoặc gậy gỗ, và quấn mũ rơm đầu, thắt lưng bằng dây chuối, dây đay hoặc dây gai. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nơi đã không còn áp dụng những quy định này, thay vào đó sử dụng băng đen theo nghi thức tang chế Châu Âu.
  • Cả con trai và con gái, cũng như con dâu, đều đeo tang phục khi tang cha mẹ, bao gồm cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ.
  • Vợ sẽ đeo tang phục khi tang chồng.
  • Trường hợp con trưởng mất trước cha mẹ, cháu đích tôn sẽ đeo tang phục để tang ông bà nội, tương tự như tang cha.

Cơ niên: Để tang một năm

Từ thời cổ xưa trở về trước, người ta sử dụng khăn tròn và vải trắng, không sử dụng gậy, trong các trường hợp sau đây:

  • Cháu nội để tang ông bà nội.
  • Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu họ sống và nuôi con cùng nhau; nếu không sống cùng nhau thì không tang. Trường hợp sống cùng trước đó nhưng sau đó không còn sống cùng nhau thì tang ba tháng.
  • Con bị cha ruồng rẫy (xuất mẫu) hoặc cha mẹ bị chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
  • Chồng để tang vợ cả có sử dụng gậy; nếu cha mẹ còn sống thì không sử dụng gậy.
  • Cháu để tang bác trai, bác gái, chú, thím và cô ruột.
  • Anh chị em ruột để tang nhau (cùng cha khác mẹ tang một năm; cùng mẹ khác cha tang năm tháng).
  • Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, bao gồm cả con đi làm con nuôi nhà người.
  • Chú, bác, thím, cô ruột để tang cháu (con của anh chị em ruột).
  • Ông bà nội để tang cháu trưởng (cháu đích tôn).
  • Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu để tang các con chồng, thứ mẫu để tang con mình và con chồng như nhau (đều là một năm). Để tang con dâu cả cũng một năm.
  • Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức là vợ lẽ cha chồng).
  • Con rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết và chồng đã lấy vợ khác cũng vậy).
  • Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bên nhà chồng đều không tang).

Đại công: Để tang chín tháng

  • Anh chị em con chú con bác ruột để tang nhau.
  • Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
  • Chú, bác, thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
  • Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím, cô ruột của chồng.
  • Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
  • Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú, thím, cô ruột.

Tiểu công: Để tang năm tháng

  • Chắt để tang Cụ (Hoàng tang: Chít khăn vàng).
  • Cháu để tang anh chị em ruột của Ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
  • Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang ba năm như mẹ để).
  • Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú con bác ruột của cha).
  • Anh chị em con chú, bác ruột để tang vợ của nhau.
  • Anh chị em chung mẹ khác cha để tang nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
  • Chú bác ruột để tang cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
  • Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
  • Ông bà nội để tang vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
  • Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
  • Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
  • Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).

Cơ niên: Để tang một năm

Từ cơ niên trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không chống gậy.

  • Cháu nội để tang ông bà nội.
  • Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở chung, nếu không ở chung thì không tang; trước có ở chung sau thôi thì để tang ba tháng.
  • Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
  • Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
  • Cháu để tang bác trai, bác gái, chú, thím và cô ruột.
  • Anh chị em ruột để tang nhau ( cùng cha khác mẹ thì cũng tang năm tháng, cùng mẹ khác cha thì tang năm tháng ).
  • Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
  • Chú, bác, thím, cô ruột để tang cháu ( con anh em ruột ).
  • Ông bà nội để tang cháu trưởng ( cháu đích tôn ).
  • Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu để tang các con chồng, thứ mẫu để tang con mình và con chồng như nhau ( đều là một năm ).

Cha mẹ có để tang con không?

Cha mẹ có để tang con không?
Cha mẹ có để tang con không?

Tang phục là biểu hiện tình nghĩa, phân biệt thân sơ “Họ đương ba tháng, láng giềng ba ngày”, thể hiện lòng thương xót giữa kẻ mất người còn. Vì thế, không chỉ thân thích mà cả người ngoài đến phúng viếng cũng nên đeo băng tang. Theo “Thọ Mai gia lễ”, không chỉ cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kị cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.

Tuy “Thọ Mai gia lễ” quy định như vậy, ở Bắc Bộ lại có quan niệm khác: “Phụ bất bái tử” (Cha không lạy con). Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là bất hiếu, vì con chưa kịp báo hiếu cha mẹ đã ra đi. Do đó, cha mẹ không để tang con. Khi khâm liệm, tử thi được quấn trên đầu một vòng khăn trắng; nếu là phụ nữ và cả tứ thân phụ mẫu còn sống, thì phải quấn hai vòng, nghĩa là ở cõi âm cũng để tang báo hiếu cho cha mẹ đang sống trên dương thế.

Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?

Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, khi cha mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha mẹ, đưa tang cha mẹ là điều bình thường. Con chết trước cha mẹ là điều nghịch cảnh, gây nhiều nỗi đau thương cho bố mẹ, đặc biệt là khi con chết còn non. Lúc này là khoảnh khắc cảm xúc đến cực điểm, nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Có nhiều trường hợp mẹ chết ngay bên huyệt chôn con.

Hơn nữa, xưa kia, phương tiện và thuốc cấp cứu khó khăn, không cho phép cha mẹ đưa tang con để giảm bớt nỗi đau và để tránh nguy cơ trùng tang. Điều này đúng là vì lòng lo sợ về sức khỏe của cha mẹ và cả các ông bà già trong gia đình, khi sức khoẻ đã rất yếu.

Đám tang trong ngày tết tính liệu ra sao?

Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, mang ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình cần tạm gác mọi mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui của cả nước. Vì vậy, có truyền thống cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có tang lớn thường kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con và xóm giềng. Ngược lại, bà con xóm giềng thường đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.

Trường hợp có người trong gia đình qua đời vào ngày 30 tháng Chạp hoặc mùng 1 Tết thì rất hiếm, nhưng không phải không có. Nếu xảy ra vào ngày 30 tháng Chạp và gia đình có thể dự đoán trước, thường nên cố gắng chôn cất trong ngày đó để kịp, vì để sang năm mới sẽ gặp nhiều bất tiện. Phần lớn các gia đình thường kiêng tang đến ngày mùng 1 Tết. Nếu người thân qua đời vào ngày mùng 1 Tết, thì gia đình không phát tang ngay mà sẽ chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng 2 phát tang.

Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?

Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?
Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?

Đó là trường hợp “Ưu hỷ trùng phùng”, khi vui buồn đan xen vào một lúc. “Sinh hữu hạn, tử vô kỳ”, cuộc sống có hạn nhưng không ai biết trước khi nào sẽ kết thúc. Theo lễ nghi, khi trong nhà còn tang và đầu có vành khăn trắng, đặc biệt là đại tang, thì tránh mọi cuộc vui. Tuy nhiên, nếu lễ cưới đã được chuẩn bị sẵn, nếu quá câu lệ thì sẽ làm cho cả hai gia đình khó xử, đặc biệt là khi tình duyên của đôi lứa bị gián đoạn

Đôi khi, cả hai gia đình đều có người cao tuổi, đợi đến khi tang chưa xong có khi mất đến bẩy tám năm. Vì vậy, tục lệ xưa cũng có khoản “Trừ hao”: “Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang”. Khi đó người chết sẽ nằm tạm trên giường, được đắp chăn chiếu, chưa nhập quan hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa làm lễ thành phục thì trong nhà không ai được khóc. Hàng xóm có thể biết, nhưng gia đình chưa phát tang thì họ không được đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận.

Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị cho đám cưới cũng phải làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng,… Tuy nhiên, lễ vật rất đơn sơ, giản lược, chỉ trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách mời đã mời sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu, chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, phải chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.

Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao? Những người biết phép lịch sự và có lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục và hiểu biết sẽ không cho phép con cháu nô đùa hay mở băng nhạc khi hàng xóm có việc buồn. Trong trường hợp này, dù có đám cưới, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ỹ, tránh tình trạng vui đùa khi người khác đang trong tang lễ. Điều này cũng áp dụng khi có Quốc tang diễn ra.

Thọ Mai Gia Lễ là di sản văn hóa quý giá cần được gìn giữ và phát huy trong đời sống hiện đại. Việc hiểu rõ về nghi thức tang lễ truyền thống này không chỉ giúp chúng ta thực hiện đúng bổn phận đối với người đã khuất mà còn góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nếu bạn muốn biết thêm thông tin chi tiết hoặc cần sự tư vấn, hãy liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 0812.919.886. Chúng tôi sẽ rất vui lòng được hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc của bạn!